CÂU HỎI VÀ ĐỀ BÀI MINH HỌA KIỂM TRA MÔN NGỮ VĂN 6
THEO MÔ HÌNH TRƯỜNG HỌC MỚI
A. Câu hỏi đọc
hiểu văn bản
Đọc hiểu văn bản là một nội dung quan trọng
trong chương trình môn Ngữ văn. Ở
học kì I của lớp
6, HS được đọc hiểu các thể loại của văn học dân gian và truyện trung đại.
Tùy thuộc vào
trình độ của HS, GV có thể sử dụng các văn bản văn học mà HS đã được học
chính thức hoặc
các văn bản chưa được học chính thức nhưng được viết theo cùng thể loại
với văn bản đã học
(lấy ở phần đọc thêm trong tài liệu Hướng dẫn học Ngữ văn 6, Tập một
hoặc các nguồn
tham khảo khác) để xây dựng các câu hỏi theo 4 mức độ: nhận biết, thông
hiểu, vận dụng
và vận dụng cao.
GV nhất thiết phải
đưa vào đề kiểm tra ít nhất 01 văn bản (là đoạn trích hoặc văn bản
hoàn chỉnh) để học
sinh đọc và trả lời các câu hỏi. Tránh trường hợp không đưa vào đề kiểm
tra văn bản để
HS đọc mà chỉ đưa ra các câu hỏi, nhất là mỗi câu hỏi lại liên quan đến một
văn bản HS đã học
trong chương trình, buộc HS phải nhớ các văn bản để trả lời câu hỏi. Bởi
đó không phải là
hình thức kiểm tra đọc hiểu theo định hướng năng lực mà là kiểm tra việc
thuộc lòng, ghi
nhớ kiến thức của HS.
Cần tích hợp việc
kiểm tra Tiếng Việt thông qua đọc hiểu văn bản. Có thể kết hợp
giữa câu hỏi trắc
nghiệm khách quan và câu hỏi tự luận; tăng cường câu hỏi mở để đánh giá
năng lực của HS.
Khi chấm bài, với những câu hỏi mở, GV cần chấp nhận những suy nghĩ, ý
kiến riêng của
HS nếu hợp lí, không trái với đạo đức và pháp luật.
Sau đây là một số câu hỏi minh họa. Kí hiệu
sau mỗi câu hỏi được quy định như sau:
(1) – mức độ nhận
biết; (2) – mức độ thông hiểu; (3) – mức độ vận dụng; (4) mức độ vận
dụng cao.
I. Đọc đoạn
trích sau và trả lời các câu hỏi:
Giặc đã đến chân
núi Trâu. Thế nước rất nguy, người người hoảng hốt. Vừa lúc đó sứ
giả đem ngựa sắt,
roi sắt, áo giáp sắt đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến
thành một tráng
sĩ mình cao hơn trượng, oai phong, lẫm liệt. Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông
ngựa. Ngựa hí
dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa.
Ngựa phun lửa,
tráng sĩ thúc ngựa phi thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết
lớp này đến lớp
khác, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gãy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre
bên đường quật
vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân giẫm đạp lên nhau chạy trốn, tráng sĩ
đuổi đến chân
núi Sóc (Sóc Sơn). Đến đấy, một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi
giáp sắt bỏ lại,
rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời’’.
(Trích Thánh Gióng)
Câu 1 (1). Đoạn
trích kể về việc gì?
Câu 2 (1). Ghi lại
01 chi tiết kì ảo, hoang đường trong đoạn trích.
Câu 3 (2). Qua
đoạn trích, nhân dân ta muốn gửi gắm ước mơ nào?
Câu 4 (3). Nêu cảm
nhận của riêng em về nhân vật Thánh Gióng trong đoạn trích.
Câu 5 (1). Ghi lại
ít nhất 02 từ mượn có trong đoạn trích.
Câu 6 (1), (2).
Giải thích nghĩa của từ “tàn quân” và cho biết em giải thích nghĩa của từ đó
bằng cách
nào?
Câu 7 (4). Nhiều
người cho rằng một trong những lí do để Thánh Gióng đánh thắng giặc là
do Thánh
Gióng có
sức khỏe phi thường (mình cao hơn
trượng, oai phong, lẫm liệt, nhổ
những cụm tre
bên đường quật vào giặc). Vậy, em nghĩ mỗi học sinh có cần tập luyện nâng
cao sức khỏe,
phát triển thể chất để bảo vệ Tổ quốc không? Vì sao? Trả lời trong khoảng 3-5
dòng.
II. Đọc đoạn
trích sau và trả lời các câu hỏi:
Đến ngày lễ
Tiên vương, các lang mang sơn hào hải vị,
nem công chả phượng tới,
chẳng thiếu thứ
gì. Vua cha xem qua một lượt rồi dừng lại trước chồng bánh của Lang Liêu,
rất vừa ý, bèn gọi
lên hỏi. Lang Liêu đem giấc mộng gặp thần ra kể lại. Vua cha ngẫm nghĩ
rất lâu rồi chọn
hai thứ bánh ấy đem tế Trời, Đất cùng Tiên vương.
Lễ xong, vua cho
đem bánh ra ăn cùng với quần thần. Ai cũng tấm tắc khen ngon.
Vua họp mọi người
lại nói :
– Bánh hình tròn
là tượng Trời ta đặt tên là bánh giầy. Bánh hình vuông là tượng Đất,
các thứ thịt mỡ,
đậu xanh, lá dong là tượng cầm thú, cây cỏ muôn loài, ta đặt tên là bánh
chưng. Lá bọc
ngoài, mĩ vị để trong là ngụ ý đùm bọc nhau. Lang Liêu đã dâng lễ vật hợp ý
ta. Lang Liêu sẽ
nối ngôi ta, xin Tiên vương chứng giám.
Từ đấy, nước ta
chăm nghề trồng trọt, chăn nuôi và có tục ngày Tết làm bánh chưng,
bánh giầy. Thiếu
bánh chưng, bánh giầy là thiếu hẳn hương vị ngày Tết.
(Trích Bánh chưng, bánh giầy)
Câu 1 (1). Đoạn
trích kể về việc gì?
Câu 2 (2). Đoạn
trích nhằm giải thích điều gì?
Câu 3 (3). Em có
đồng tình với ý kiến “Thiếu bánh chưng, bánh giầy là thiếu hẳn hương vị
ngày Tết” trong
đoạn trích hay không? Vì sao? Trả lời trong khoảng 3-5 dòng.
Câu 4 (4). Hiện nay, phong tục gói bánh chưng ngày
Tết trong nhiều gia đình người Việt
Nam đã không
còn. Theo em, chúng ta có cần khôi phục và giữ gìn phong tục ấy không? Vì
sao? Trả lời
trong khoảng 3-5 dòng.
Câu 5 (1). Nhận định nào đúng với cụm từ “hai thứ
bánh ấy” (trong câu “Vua cha ngẫm
nghĩ rất lâu rồi
chọn hai thứ bánh ấy đem tế Trời, Đất cùng Tiên vương.”)?
A. Là một cụm
danh từ B. Là một cụm động từ
C. Là một cụm
tính từ D. Là một lượng từ
Câu 6 (1),(2).
Giải thích nghĩa của từ “lễ vật” (trong câu “Lang Liêu đã dâng lễ vật hợp ý
ta.”) và cho biết
em đã giải nghĩa từ đó bằng cách nào?
III. Đọc văn bản
sau và trả lời câu hỏi:
ĐẼO CÀY GIỮA ĐƯỜNG
Xưa có một người
thợ mộc dốc hết vốn trong nhà ra mua gỗ để làm nghề đẽo cày.
Cửa hàng anh ta ở
ngay bên vệ đường. Người qua, kẻ lại thường ghé vào xem anh ta đẽo
bắp cày.
Một hôm, một ông
cụ nói :
– Phải đẽo cho
cao, cho to thì cày mới dễ.
Anh ta cho là phải,
đẽo cái nào cũng vừa to vừa cao.
Mấy hôm sau, một
bác nông dân rẽ vào, nhìn đống cày, lắc đầu nói :
– Đẽo thế này
thì cày sao được ! Phải đẽo nhỏ hơn, thấp hơn mới dễ cày.
Nghe cũng có lí,
anh ta liền đẽo cày vừa nhỏ, vừa thấp. Nhưng hàng đầy ra ở cửa,
chẳng ai mua. Chợt
có người đến bảo :
– Ở miền núi,
người ta vỡ hoang, toàn cày bằng voi cả. Anh mau đẽo cày to gấp đôi,
gấp ba như thế
này thì bao nhiêu bán cũng hết, tha hồ mà lãi.
Nghe nói được
nhiều lãi, anh ta đem tất cả số gỗ của nhà còn lại đẽo toàn loại cày để
cho voi cày.
Nhưng ngày qua, tháng lại, chẳng thấy ai đến mua cày voi của anh ta cả. Thế là
bao nhiêu gỗ anh ta đẽo hỏng hết, cái thì bé quá, cái thì to quá. Vốn liếng đi
đời nhà ma.
Khi anh ta biết
cả tin là dại thì đã quá muộn !
(TheoTrương
Chính)
Câu 1 (1). Truyện
kể về việc gì?
Câu 2 (2). Trong
truyện, người thợ mộc bị chê cười vì điều gì?
Câu 3 (3). Hãy
nêu nhận xét/đánh giá của em về việc làm của người thợ mộc trong truyện.
Trả lời trong
khoảng 2-4 dòng.
Câu 4 (4). Đọc xong câu chuyện trên, em rút ra bài
học gì cho bản thân và những người
xung quanh? Trả
lời trong khoảng 3-5 dòng.
IV. Đọc đoạn
trích sau và trả lời câu hỏi.
Cụ tổ bên ngoại
của Trừng, người họ Phạm, húy là Bân, có
nghề y gia truyền, giữ
chức Thái y lệnh
để phụng sự Trần Anh Vương.
Ngài thường đem
hết của cải trong nhà ra mua các loại thuốc tốt và tích trữ thóc gạo.
Gặp kẻ tật bệnh
cơ khổ, ngài cho ở nhà mình, cấp cơm cháo, chữa trị. Dẫu bệnh có dầm dề
máu mủ, ngài
cũng không hề né tránh. Bệnh nhân đến chữa tới khi khoẻ mạnh rồi đi. Cứ
như vậy, trên
giường không lúc nào vắng người.
… Một lần, có
người đến gõ cửa, mời gấp :
- Nhà có người
đàn bà, bỗng nhiên nguy kịch, máu chảy như xối, mặt mày xanh lét.
Nghe vậy, ngài
theo người đó đi ngay. Nhưng ra tới cửa thì gặp sứ giả do vương sai
tới, bảo rằng :
- Trong cung có
bậc quý nhân bị sốt, vương triệu đến khám.
Ngài nói :
- Bệnh đó không
gấp. Nay mệnh sống của người nhà người này chỉ ở trong khoảnh
khắc. Tôi hãy cứu
họ trước, lát nữa sẽ tới vương phủ.
Quan Trung sứ tức
giận nói :
– Phận làm tôi,
sao được như vậy ? Ông định cứu tính mạng người ta mà không cứu
tính mạng mình
chăng ?
Ngài đáp :
- Tôi có mắc tội,
cũng không biết làm thế nào. Nếu người kia không được cứu, sẽ chết
trong khoảnh khắc,
chẳng biết trông vào đâu. Tính mệnh của
tiểu thần còn trông cậy vào
chúa thượng may
ra thoát. Tội tôi xin chịu.
Nói rồi, đi cứu
người kia…
(Trích Thầy thuốc
giỏi cốt nhất ở tấm lòng - Hồ Nguyên Trừng)
Câu 1 (1). Nhân
vật “ngài” xưng “tôi” trong đoạn trích trên là ai ?
Câu 2 (2). Vì sao
nhân vật ấy lại không đến vương phủ trước theo yêu cầu của quan Trung
sứ?
Câu 2 (3). Hãy
nhận xét về hành động “đi cứu người kia” của nhân vật xưng “tôi”.
Câu 3 (4). Em học
được điều gì tốt đẹp từ nhân vật xưng “tôi” ấy? Trả lời trong khoảng 3-5
dòng.
B. Đề bài tập
làm văn – Văn tự sự (kể chuyện)
GV xây dựng các
đề tập làm văn kể chuyện tưởng tượng hoặc kể chuyện đời thường
để đánh giá khả
năng viết văn tự sự của HS. Cần tích hợp kiểm tra Tiếng Việt thông qua tập
làm văn. Cần
tăng cường việc ra đề mở để đánh giá năng lực của HS. Khi chấm bài, với những đề
mở, GV cần chấp nhận những suy nghĩ, ý kiến riêng của HS nếu hợp lí, không trái
với đạo đức và
pháp luật.
Sau đây là một số đề bài minh họa. Các đề bài
tập làm văn này đều được xếp vào mức
độ vận dụng (3)
(nếu kể chuyện theo một cốt truyện đã học/biết) hoặc vận dụng cao (4) (nếu
kể chuyện sáng tạo
hoàn toàn).
Đề 1 (4). Kể lại
một câu chuyện theo chủ đề: cách ứng xử khôn khéo, thông minh của con
người trong cuộc
sống. Gạch dưới các số từ, lượng từ, chỉ từ (nếu có) trong bài văn của em.
Đề 2 (3). Đóng
vai công chúa Mị Nương kể lại truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh. Gạch dưới các
danh từ, cụm
danh từ (nếu có) trong bài văn của em.
Đề 3 (4). Kể cho
người thân nghe một câu chuyện, trong đó nêu lên sự việc làm thay đổi suy
nghĩ / nhận thức
của em về một người bạn. Gạch dưới các tính từ, cụm tính từ (nếu có) trong
bài văn của em.
Đề 4 (4). Kể lại
một chuyến đi chơi thú vị của em và gia đình hoặc bạn bè. Trong bài văn, sử
dụng ít nhất 01
từ nhiều nghĩa và gạch dưới từ đó.
Đề 5 (3). Kể lại
một truyện dân gian mà em thích nhất ở ngôi thứ ba bằng lời văn của em.
Gạch dưới các từ
Hán Việt (nếu có) trong bài văn của em.
C. CÁCH XÂY DỰNG
ĐỀ KIỂM TRA HỌC KÌ I - MÔN NGỮ VĂN 6
Đề kiểm tra Học kì I – Môn Ngữ văn 6 có thời
lượng 90 phút.
Đề thi gồm 2 phần:
- Phần I – Đọc hiểu văn bản (4,0 đến 5,0 điểm):
gồm ít nhất 01 văn bản văn học
(truyện dân gian
hoặc truyện trung đại). Không kiểm tra đọc hiểu văn bản nhật dụng do HS
chưa học văn bản
này ở Học kì I – Lớp 6. Các câu hỏi được xây dựng theo các mức độ: nhận
biết, thông hiểu,
vận dụng, vận dụng cao. Với mỗi mức độ, có ít nhất 01 câu hỏi.
- Phần II – Làm văn (5,0 đến 6,0 điểm): gồm
01 đề bài tập làm văn tự sự kể chuyện
tưởng tượng hoặc
kể chuyện đời thường.