Chủ Nhật, 20 tháng 12, 2015

BGD: ĐỀ BÀI MINH HỌA KIỂM TRA MÔN NGỮ VĂN 6



CÂU HỎI VÀ ĐỀ BÀI MINH HỌA KIỂM TRA MÔN NGỮ VĂN 6
THEO MÔ HÌNH TRƯỜNG HỌC MỚI
A. Câu hỏi đọc hiểu văn bản
  Đọc hiểu văn bản là một nội dung quan trọng trong chương trình môn Ngữ văn. Ở
học kì I của lớp 6, HS được đọc hiểu các thể loại của văn học dân gian và truyện trung đại.
Tùy thuộc vào trình độ của HS, GV có thể sử dụng các văn bản văn học mà HS đã được học
chính thức hoặc các văn bản chưa được học chính thức nhưng được viết theo cùng thể loại
với văn bản đã học (lấy ở phần đọc thêm trong tài liệu Hướng dẫn học Ngữ văn 6, Tập một
hoặc các nguồn tham khảo khác) để xây dựng các câu hỏi theo 4 mức độ: nhận biết, thông
hiểu, vận dụng và vận dụng cao.
GV nhất thiết phải đưa vào đề kiểm tra ít nhất 01 văn bản (là đoạn trích hoặc văn bản
hoàn chỉnh) để học sinh đọc và trả lời các câu hỏi. Tránh trường hợp không đưa vào đề kiểm
tra văn bản để HS đọc mà chỉ đưa ra các câu hỏi, nhất là mỗi câu hỏi lại liên quan đến một
văn bản HS đã học trong chương trình, buộc HS phải nhớ các văn bản để trả lời câu hỏi. Bởi
đó không phải là hình thức kiểm tra đọc hiểu theo định hướng năng lực mà là kiểm tra việc
thuộc lòng, ghi nhớ kiến thức của HS.
Cần tích hợp việc kiểm tra Tiếng Việt thông qua đọc hiểu văn bản. Có thể kết hợp
giữa câu hỏi trắc nghiệm khách quan và câu hỏi tự luận; tăng cường câu hỏi mở để đánh giá
năng lực của HS. Khi chấm bài, với những câu hỏi mở, GV cần chấp nhận những suy nghĩ, ý
kiến riêng của HS nếu hợp lí, không trái với đạo đức và pháp luật.
   
Sau đây là một số câu hỏi minh họa. Kí hiệu sau mỗi câu hỏi được quy định như sau:
(1) – mức độ nhận biết; (2) – mức độ thông hiểu; (3) – mức độ vận dụng; (4) mức độ vận
dụng cao.

I. Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:
Giặc đã đến chân núi Trâu. Thế nước rất nguy, người người hoảng hốt. Vừa lúc đó sứ
giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến
thành một tráng sĩ mình cao hơn trượng, oai phong, lẫm liệt. Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông
ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa.
Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết
lớp này đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gãy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre
bên đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân giẫm đạp lên nhau chạy trốn, tráng sĩ
đuổi đến chân núi Sóc (Sóc Sơn). Đến đấy, một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi
giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời’’.
                                                              (Trích Thánh Gióng)
Câu 1 (1). Đoạn trích kể về việc gì? 
Câu 2 (1). Ghi lại 01 chi tiết kì ảo, hoang đường trong đoạn trích. 
Câu 3 (2). Qua đoạn trích, nhân dân ta muốn gửi gắm ước mơ nào? 
Câu 4 (3). Nêu cảm nhận của riêng em về nhân vật Thánh Gióng trong đoạn trích. 
Câu 5 (1). Ghi lại ít nhất 02 từ mượn có trong đoạn trích. 
Câu 6 (1), (2). Giải thích nghĩa của từ “tàn quân” và cho biết em giải thích nghĩa của từ đó
bằng cách nào? 
Câu 7 (4). Nhiều người cho rằng một trong những lí do để Thánh Gióng đánh thắng giặc là
do Thánh Gióng    sức khỏe phi thường  (mình cao hơn trượng, oai phong, lẫm liệt, nhổ
những cụm tre bên đường quật vào giặc). Vậy, em nghĩ mỗi học sinh có cần tập luyện nâng
cao sức khỏe, phát triển thể chất để bảo vệ Tổ quốc không? Vì sao? Trả lời trong khoảng 3-5 dòng.
II. Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:
Đến ngày lễ Tiên  vương, các lang mang sơn hào hải vị, nem công chả phượng tới,
chẳng thiếu thứ gì. Vua cha xem qua một lượt rồi dừng lại trước chồng bánh của Lang Liêu,
rất vừa ý, bèn gọi lên hỏi. Lang Liêu đem giấc mộng gặp thần ra kể lại. Vua cha ngẫm nghĩ
rất lâu rồi chọn hai thứ bánh ấy đem tế Trời, Đất cùng Tiên vương.
Lễ xong, vua cho đem bánh ra ăn cùng với quần thần. Ai cũng tấm tắc khen ngon. 
Vua họp mọi người lại nói :
– Bánh hình tròn là tượng Trời ta đặt tên là bánh giầy. Bánh hình vuông là tượng Đất,
các thứ thịt mỡ, đậu xanh, lá dong là tượng cầm thú, cây cỏ muôn loài, ta đặt tên là bánh
chưng. Lá bọc ngoài, mĩ vị để trong là ngụ ý đùm bọc nhau. Lang Liêu đã dâng lễ vật hợp ý
ta. Lang Liêu sẽ nối ngôi ta, xin Tiên vương chứng giám.
Từ đấy, nước ta chăm nghề trồng trọt, chăn nuôi và có tục ngày Tết làm bánh chưng,
bánh giầy. Thiếu bánh chưng, bánh giầy là thiếu hẳn hương vị ngày Tết.    
                (Trích Bánh chưng, bánh giầy)
Câu 1 (1). Đoạn trích kể về việc gì? 
Câu 2 (2). Đoạn trích nhằm giải thích điều gì? 
Câu 3 (3). Em có đồng tình với ý kiến “Thiếu bánh chưng, bánh giầy là thiếu hẳn hương vị
ngày Tết” trong đoạn trích hay không? Vì sao? Trả lời trong khoảng 3-5 dòng.
Câu 4  (4). Hiện nay, phong tục gói bánh chưng ngày Tết trong nhiều gia đình người Việt
Nam đã không còn. Theo em, chúng ta có cần khôi phục và giữ gìn phong tục ấy không? Vì
sao? Trả lời trong khoảng 3-5 dòng.
Câu 5  (1). Nhận định nào đúng với cụm từ “hai thứ bánh ấy” (trong câu “Vua cha ngẫm
nghĩ rất lâu rồi chọn hai thứ bánh ấy đem tế Trời, Đất cùng Tiên vương.”)? 
A. Là một cụm danh từ      B. Là một cụm động từ  
C. Là một cụm tính từ        D. Là một lượng từ
Câu 6 (1),(2). Giải thích nghĩa của từ “lễ vật” (trong câu “Lang Liêu đã dâng  lễ vật hợp ý
ta.”) và cho biết em đã giải nghĩa từ đó bằng cách nào? 

III. Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
ĐẼO CÀY GIỮA ĐƯỜNG
Xưa có một người thợ mộc dốc hết vốn trong nhà ra mua gỗ để làm nghề đẽo cày.
Cửa hàng anh ta ở ngay bên vệ đường. Người qua, kẻ lại thường ghé vào xem anh ta đẽo
bắp cày.
Một hôm, một ông cụ nói :
– Phải đẽo cho cao, cho to thì cày mới dễ.
Anh ta cho là phải, đẽo cái nào cũng vừa to vừa cao.
Mấy hôm sau, một bác nông dân rẽ vào, nhìn đống cày, lắc đầu nói :
– Đẽo thế này thì cày sao được ! Phải đẽo nhỏ hơn, thấp hơn mới dễ cày.
Nghe cũng có lí, anh ta liền đẽo cày vừa nhỏ, vừa thấp. Nhưng hàng đầy ra ở cửa,
chẳng ai mua. Chợt có người đến bảo :
– Ở miền núi, người ta vỡ hoang, toàn cày bằng voi cả. Anh mau đẽo cày to gấp đôi,
gấp ba như thế này thì bao nhiêu bán cũng hết, tha hồ mà lãi.
Nghe nói được nhiều lãi, anh ta đem tất cả số gỗ của nhà còn lại đẽo toàn loại cày để
cho voi cày. Nhưng ngày qua, tháng lại, chẳng thấy ai đến mua cày voi của anh ta cả. Thế là bao nhiêu gỗ anh ta đẽo hỏng hết, cái thì bé quá, cái thì to quá. Vốn liếng đi đời nhà ma.
Khi anh ta biết cả tin là dại thì đã quá muộn !
(TheoTrương Chính)
Câu 1 (1). Truyện kể về việc gì?
Câu 2 (2). Trong truyện, người thợ mộc bị chê cười vì điều gì?
Câu 3 (3). Hãy nêu nhận xét/đánh giá của em về việc làm của người thợ mộc trong truyện.
Trả lời trong khoảng 2-4 dòng.
Câu 4  (4). Đọc xong câu chuyện trên, em rút ra bài học gì cho bản thân và những người
xung quanh? Trả lời trong khoảng 3-5 dòng.

IV. Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi. 
Cụ tổ bên ngoại của Trừng, người họ Phạm, húy  là Bân, có nghề y gia truyền, giữ
chức Thái y lệnh để phụng sự Trần Anh Vương.
Ngài thường đem hết của cải trong nhà ra mua các loại thuốc tốt và tích trữ thóc gạo.
Gặp kẻ tật bệnh cơ khổ, ngài cho ở nhà mình, cấp cơm cháo, chữa trị. Dẫu bệnh có dầm dề
máu mủ, ngài cũng không hề né tránh. Bệnh nhân đến chữa tới khi khoẻ mạnh rồi đi. Cứ
như vậy, trên giường không lúc nào vắng người.
… Một lần, có người đến gõ cửa, mời gấp :
- Nhà có người đàn bà, bỗng nhiên nguy kịch, máu chảy như xối, mặt mày xanh lét.
Nghe vậy, ngài theo người đó đi ngay. Nhưng ra tới cửa thì gặp sứ giả do vương sai
tới, bảo rằng :
- Trong cung có bậc quý nhân bị sốt, vương triệu đến khám.
Ngài nói :
- Bệnh đó không gấp. Nay mệnh sống của người nhà người này chỉ ở trong khoảnh
khắc. Tôi hãy cứu họ trước, lát nữa sẽ tới vương phủ.
Quan Trung sứ tức giận nói :
– Phận làm tôi, sao được như vậy ? Ông định cứu tính mạng người ta mà không cứu
tính mạng mình chăng ?
Ngài đáp :
- Tôi có mắc tội, cũng không biết làm thế nào. Nếu người kia không được cứu, sẽ chết
trong khoảnh khắc, chẳng biết trông vào đâu. Tính mệnh  của tiểu thần còn trông cậy vào
chúa thượng may ra thoát. Tội tôi xin chịu.
Nói rồi, đi cứu người kia…
(Trích Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng - Hồ Nguyên Trừng)
Câu 1 (1). Nhân vật “ngài” xưng “tôi” trong đoạn trích trên là ai ? 
Câu 2 (2). Vì sao nhân vật ấy lại không đến vương phủ trước theo yêu cầu của quan Trung
sứ? 
Câu 2 (3). Hãy nhận xét về hành động “đi cứu người kia” của nhân vật xưng “tôi”.
Câu 3 (4). Em học được điều gì tốt đẹp từ nhân vật xưng “tôi” ấy? Trả lời trong khoảng 3-5
dòng.

B. Đề bài tập làm văn – Văn tự sự (kể chuyện)
GV xây dựng các đề tập làm văn kể chuyện tưởng tượng hoặc kể chuyện đời thường
để đánh giá khả năng viết văn tự sự của HS. Cần tích hợp kiểm tra Tiếng Việt thông qua tập
làm văn. Cần tăng cường việc ra đề mở để đánh giá năng lực của HS. Khi chấm bài, với những đề mở, GV cần chấp nhận những suy nghĩ, ý kiến riêng của HS nếu hợp lí, không trái
với đạo đức và pháp luật.
  Sau đây là một số đề bài minh họa. Các đề bài tập làm văn này đều được xếp vào mức
độ vận dụng (3) (nếu kể chuyện theo một cốt truyện đã học/biết) hoặc vận dụng cao (4) (nếu
kể chuyện sáng tạo hoàn toàn).
Đề 1 (4). Kể lại một câu chuyện theo chủ đề: cách ứng xử khôn khéo, thông minh của con
người trong cuộc sống. Gạch dưới các số từ, lượng từ, chỉ từ (nếu có) trong bài văn của em.
Đề 2 (3). Đóng vai công chúa Mị Nương kể lại truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh. Gạch dưới các
danh từ, cụm danh từ (nếu có) trong bài văn của em.
Đề 3 (4). Kể cho người thân nghe một câu chuyện, trong đó nêu lên sự việc làm thay đổi suy
nghĩ / nhận thức của em về một người bạn. Gạch dưới các tính từ, cụm tính từ (nếu có) trong
bài văn của em.
Đề 4 (4). Kể lại một chuyến đi chơi thú vị của em và gia đình hoặc bạn bè. Trong bài văn, sử
dụng ít nhất 01 từ nhiều nghĩa và gạch dưới từ đó.
Đề 5 (3). Kể lại một truyện dân gian mà em thích nhất ở ngôi thứ ba bằng lời văn của em.
Gạch dưới các từ Hán Việt (nếu có) trong bài văn của em.

C. CÁCH XÂY DỰNG ĐỀ KIỂM TRA HỌC KÌ I - MÔN NGỮ VĂN 6  
  Đề kiểm tra Học kì I – Môn Ngữ văn 6 có thời lượng 90 phút. 
Đề thi gồm 2 phần:
  - Phần I – Đọc hiểu văn bản (4,0 đến 5,0 điểm): gồm ít nhất 01 văn bản văn học
(truyện dân gian hoặc truyện trung đại). Không kiểm tra đọc hiểu văn bản nhật dụng do HS
chưa học văn bản này ở Học kì I – Lớp 6. Các câu hỏi được xây dựng theo các mức độ: nhận
biết, thông hiểu, vận dụng, vận dụng cao. Với mỗi mức độ, có ít nhất 01 câu hỏi. 
  - Phần II – Làm văn (5,0 đến 6,0 điểm): gồm 01 đề bài tập làm văn tự sự kể chuyện
tưởng tượng hoặc kể chuyện đời thường.



















Chủ Nhật, 13 tháng 12, 2015

CÂU CHUYỆN HÒN ĐÁ XÙ XÌ

                                                            Bài làm
Trong cuộc sống thường chê bai những thứ tưởng như vô dụng nhưng lại là những thứ vĩ đại mà không ai có thể ngờ đến. Điều đó đã được minh chứng qua bài  “Hòn đá xù xì” của Gỉa Bình Ao. Hòn đá đó trông bề ngoài vướng víu, vô ích nhưng thật chất là một hòn đá rơi từ vũ trụ xuống, một hòn đá đã từng vá trời từ hai ba trăm năm trước.
Trước nhà nhân vật trong bài có một hòn đá vô dụng, vướng víu, “đen sì sì nằm sấp như con trâu”,chẳng ai cần đến mà cũng chẳng ai vần nó đi cả. Một hòn đá mà cả xây tường, lát bậc,làm cối cũng không dùng được.Ai ai cũng mắng chê, ghét bỏ nó. Tuy vậy, một hôm có một nhà thiên văn đến và bảo nó là hòn dá rơi từ trên trời xuống. Sau đó mọi người đều cảm thấy xấu hổ,nuối tiếc đồng thời cảm thấy cái vĩ đại của hòn đá. Tác phẩm cho chúng ta thấy không được trông bề ngoài mà đánh giá bản chất của một vật. Điều đó cũng tương tự như khi đánh giá một người.
Ban đầu nó là hòn đá vừa xù xì, xấu xí, tai quái lại vừa vô dụng nên chẳng ai ưa nó cả. Dùng nó để xây tường cũng không được vì nó không có hình thù gì, không bằng phẳng, không góc cạnh, chẳng bằng ra bờ sông vác đá mang về còn tốt hơn. Ngay cả dùng để lát bậc lên xuống cũng không ai dùng đến nó. Rồi sau đó có bác thợ đá đục chiếc cối cũng lắc đầu chê chất đá mịn quá không dùng được. Nó nằm lặng lẽ mặc cho cỏ dại, dây leo rêu xanh mọc trên người. Bọn trẻ cũng ghét nó nhưng cũng đành kệ nó nằm chết gí. Mọi người ai cũng đều ghét bỏ, mắng chê hòn đá tai quái này. Tác giả đã dùng những dẫn chứng cụ thể để nói về sự vô ích của hòn đá, những hình ảnh xấu xí để miêu tả nó. Nhưng sau đó mọi người đều lấy làm ngạc nhiên khi có một nhà thiên văn nhận định nó là một hòn đá rơi từ vũ trụ xuống từ mấy trăm năm trước.Đây la chi tiết dẫn dắt câu chuyện, có ảnh hưởng đến ý nghĩa của cả câu chuyện. Hòn đá này đã từng đem lại cho tổ tiên chúng ta ánh sáng, đã từng vá trời. Điều đó khiến cho mọi người ai nấy đều ngưỡng mộ, thán phục những gì mà hòn đá đã trải qua. Đồng thời cũng cảm thấy xấu hổ vì trước giờ luôn khinh chê, mắng nó là vô dụng. Nó lâý xấu làm đẹp,xấu đến tận cùng là đẹp đến tận cùng. Hòn đá đã sống một cách vĩ đại, âm thầm và không sợ hiểu lầm.
Tác giả đã xây dựng rất thành công hình ảnh hòn đá thật vĩ đại nhưng cũng thật đời thường bằng nghệ thuật tương phản, cốt truyện chặt chẽ, lựa chọn tình huống bất ngờ mà tự nhiên, hợp lý. Ngoài ra tác giả cũng rất thành công trong việc sử dụng nghệ thuật nhân hóa một vật vô tri vô giác và lựa chọn ngôi kể làm tăng tính khách quan của câu chuyện, đem đến cho mọi người nhiều xúc động về sự vĩ đại của hòn đá.
Tác giả đã rất sáng tạo khi sử dụng hình ảnh một hòn đá để nêu lên giá trị tư tưởng của tác phẩm. Tác phẩm giúp cho chúng ta nhận ra một bài học quí giá: không được trông bề ngoài mà đánh giá bản chất của một vật hay phẩm chất của một con người. Đây có lẽ là bài học mà mọi người qua mọi thế hệ đều có thể áp dụng.
Tác phẩm “Hòn đá xù xì” đã cho chúng ta một bài học quí báu để chúng ta có thể áp dụng trên đường đời. Những thứ tưởng như vô dụng có thể là những thứ mà chẳng ai có thể ngờ đến. Đó cũng là những gì mà tác giả muốn gửi đến cho chúng ta.



Con phải phấn đấu luôn luôn

Lớp: 10A1-36
Đề 2: Cảm nhận của anh/chị về ý nghiã xã hội được đề cập đến trong đoạn văn dưới đây:
“Cố lên. Con ơi. Lấy sách vở làm khí giới, lấy lớp học làm quân đội, lấy thế giới làm bãi chiến trường. Coi ngu dốt là cừu địch và lấy sự văn minh của nhân loại làm cuộc khải hoàn. Con phải phấn đấu luôn luôn và chớ làm tên lính hèn nhát”
Trích “ Học đường “ trong “ Tâm hồn cao thượng “ , EDMON DE AMICIS – Hà Anh dịch
Bài làm

Chúng ta đang sống ở thế ki 21, một thế kỉ hòa bình, một thế kỉ văn minh hiện đại. Để đạt được thành công này mỗi con người chúng ta phải tự đặt mình vào vị trí của một người chiến sĩ như tác giả EDMON DE AMICIS đã viết “Cố lên. Con ơi. Lấy sách vở làm khí giới, lấy lớp học làm quân đội, lấy thế giới làm bãi chiến trường. Coi ngu dốt là cừu địch và lấy sự văn minh của nhân loại làm cuộc khải hoàn. Con phải phấn đấu luôn luôn và chớ làm tên lính hèn nhát”
Một người chiến sĩ giỏi trong thời chiến cần có lòng dũng cảm tính can đảm khi ra trận. Khi đối mặt với kẻ thù người chiến sĩ phải tự sáng tạo cho mình 1 loại vũ khí tuy thô sơ nhưng vẫn chiến thắng được kẻ thù. Ngày nay chúng ta không phải chiến đâu với kẻ thù nhưng chúng ta phải chiến đấu với muôn vàn cái xấu trong xã hội như là giặc đói, giặc dốt, ... . Để ngăn chặn điều này chúng ta phải luôn luôn phấn đấu học hỏi không ngừng như Bác Hồ đã dạy:”Học, học nữa, học mãi”. Kiến thức đối với con người là vô tận, kiến thức như một loại vũ khí tối tân nhất để chugn1 ta có thể đánh bại “ Mọi kẻ thù”, để có được kiến thức thì chúng ta có thể học qua thầy cô, bạn bè, sách vở,... .Chúng ta cần phải áp dụng kiến thức đã học và đời sống thưc tế hằng ngày để có thể giúp ích cho bản thân, gia đình, xã hội, góp phần làm cho xã hội phát triển. Nhưng chúng ta cần phải có nề nếp, đạo đức tốt để chiến thắng được sự cám dỗ đồng tiền, ham muốn vật chất, của những thú vui tiêu khiển.
Mỗi con người đều có những ham muốn riêng của cá nhân, nhưng không thể vì những ham muốn mà làm xấu đi hình ảnh của bản thân, gia đình, đất nước. Chúng ta phải biết hi sinh những ham muốn nho nhoi đó để đạt được những ước muốn to lớn hơn. Có thể hôm nay chúng ta thất bại, nhưng với sự kiên nhẫn, quyết tâm phấn đấu, dũng cảm vượt qua mọi sự khó khăn, rào cản thì sự thành công sẽ nằm ở tương lai rất gần. Tuy thế giới đang hòa bình nhưng vẫn có những thế  lực ngầm âm mưu xâm lược chia rẽ đất nước một cách tinh vi như trong thời gian vừa qua Trung Quốc đã đưa giàn khoan 981 vào khai thác tại quần đảo Trường Sa thuộc lãnh hải Việt Nam, chúng ta đã khôn khéo sử dụng chiến lực trí tuệ cho hòa bình chứ không dùng sức mạnh của vũ khí thì chúng ta đã không ngăn chặn kịp thời  hành động sai trái này. Đây cũng là minh chứng cho thấy trí tuệ là vũ khí tối ưu, hiệu quả nhất.
Đất nước ta đang trên đà phát triển, chúng ta rất cần những  người tiên phong trong mọi lĩnh lực công, nông, ngư nghiệp. Những người có trình độ tri thức và đạo dức sẽ giúp đất nước ta sánh vai cùng với các cường quốc năm châu. Nếu như chúng ta không liên tục cập nhật tri thức thì sẽ trở nên tụt, lạc hậu. Xã hội càng ngày càng phát triển thì nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống mỗi con người ngày càng tăng. Nếu như chúng ta tự mãn khi đã chế tạo thành công một thứ gì đó, chìm đắm trong sự thành công đã đạt được ngủ quên trên chiến thắng không lo đầu tư cao hơn phát triển rộng hơn thì chúng ta sẽ không đáp ứng được nhu cầu của phát triển của xã hội.
Khi đứng trước kẻ thù mà chúng ta sơ hãi giơ tay đầu hàng chắc chắn chúng ta sẽ lãnh hậu quả “ đen tối”. Nếu chúng ta can đảm chống trả thì chúng ta sẽ có cơ hội “tươi sáng “ hơn. Cũng như chúng ta chỉ mới thất bại lần một, lần hai đã nản lòng bỏ cuộc buông xuôi thì chúng ta sẽ không có cơ hội thành công ở lần ba và phát triển ở lần bốn. Và tục ngữ đã có câu:”Thất bại là mẹ của thành công”. Thật đúng vậy nhà bác học Ê-đi-xơn khi sáng tạo ra bình ắc quy đã phải tiến hành hơn 50000 thí nghiệm trong suốt mười năm trời. Nếu ông hèn nhát bỏ cuộc thì chắc bây giờ chúng ta đã không có những phương tiện, sản phẩm hiện đại để sử dụng.
Chúng ta cần phải đặt mục tiêu riêng cho bản thân là trở thành người có ích cho gia đình và xã hội. Để đạt được điều này chúng ta phải tự rèn luyện đạo đức tốt, chăm chỉ học tập, liên tục tìm tòi và cập nhật những thông tin, những kiến thức hay, bổ ích. Kiên quyết bài trừ những thói hư, tật xấu,  dũng cảm vượt qua những sai phạm, những cám dỗ của sự giàu sang bất chính. Có như vậy chúng ta mới có thể thành công trong cuộc sống để góp phần phát triển cho đất nước. Và quan niệm sống của em là:
    Muốn biết phải học
    Muốn giỏi phải làm
    Muốn hiểu phải nghe
    Muốn đúng phải hỏi

Thứ Tư, 28 tháng 10, 2015

Đề mở

28.10.2015
TTO - Cư dân mạng đang truyền tay nhau đề kiểm tra giữa học kỳ 1 môn Ngữ văn lớp 12 của Trường THPT Bùi Thị Xuân, TPHCM.  
Đề kiểm tra văn đang được chia sẻ trên mạng
Đề kiểm tra văn đang được chia sẻ trên mạng
Đề thi được nhiều bạn trẻ khen hay, tạo cảm hứng và khơi đúng nỗi lòng của học sinh.
Phần Làm văn có 2 câu, câu 1 dành cho học sinh ban cơ bản: “Ngôn ngữ tuổi mới lớn (ngôn ngữ “chat”) đang được giới trẻ tôn vinh vào hàng… sành điệu. Nhưng càng “sành điệu” bao nhiêu thì tiếng Việt lại càng bị “bám bụi” bấy nhiêu…
(Trích “Choáng” với ngôn ngữ tuổi mới lớn”, Nguyễn Toàn, Sài Gòn online)
Em hãy trình bày suy nghĩ của mình về ý kiến trên.
Câu 2 dành cho những học sinh học ban nâng cao: “…Tình cảm gia đình bình dị thời nào cũng khiến người ta rơi lệ: Cảnh ba mẹ Thiều vét vá cháo cuối cùng nhường cho các con khi cả nhà ngồi tum hum trên bộ ván ngày bão ngập nhà chắc hẳn sẽ theo suốt cuộc đời những đứa trẻ này…Có lẽ vì thế, dù mới công chiếu ra rạp nhưng bộ phim “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” đã thu hút một lượng lớn khán giả đến xem…”
(Theo “Giới trẻ Hà Thành xếp hàng xem phim “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh”, Tài Linh, laodong.com.vn)
Từ bản tin trên, em hãy trình bày suy nghĩ của mình về vai trò của tình cảm gia đình đối với mỗi người, đặc biệt là giới trẻ trong xã hội hiện nay.
Tác giả đề Văn trên là cô giáo Nguyễn Ái Trà My - giáo viên môn Văn, Trường THPT Bùi Thị Xuân.
Cô My nói với TT: “Tiêu chí ra đề kiểm tra của tôi là nội dung đề phải có tính thời sự, nhất là đề Văn nghị luận xã hội: nhất thiết phải là những vấn đề gần gũi với cuộc sống của học sinh. Đề Văn nghị luận xã hội không chỉ tạo cơ hội để học sinh thể hiện quan điểm, cách suy nghĩ, nhìn nhận của  mình về cuộc sống mà còn mang ý nghĩa tác động để các em sống tốt hơn”.
Cô My cho biết sở dĩ cô chọn nội dung về ngôn ngữ “chat” là vì nhiều em học sinh sử dụng quá nhiều loại ngôn ngữ này trong bài kiểm tra của mình: “Ngay cả khi các em nhắn tin cho tôi, có nhiều câu tôi cũng không hiểu. Cô - trò trao đổi với nhau bằng tiếng Việt mà phải dịch nghĩa một hồi mới hiểu được nội dung”.
Riêng câu hỏi về tình cảm gia đình, cô My giải thích rằng nó bắt nguồn từ thực tế đáng buồn hiện nay: “Giềng mối gia đình lỏng lẻo, giới trẻ thích được tự do như phương Tây, cộng với áp lực học hành đã cuốn các em đi. Một số em không thích dự bữa cơm gia đình, không thích nói chuyện với cha mẹ, coi thường giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình… Nhân thời điểm bộ phim “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” đang “hot”, tôi ra đề này để các em học sinh có dịp nhìn lại mình và cách cư xử của mình”.
Cũng theo cô My, đây là đề kiểm tra tập trung của trường (có rọc phách trước khi giáo viên chấm tập trung) nên mặc dù các giáo viên vừa chấm xong nhưng chưa lên điểm: “Tôi cũng tham gia chấm một số bài thì thấy học sinh viết khá cảm xúc, cũng có em đạt được 9 điểm.
Ở Trường THPT Bùi Thị Xuân, trước mỗi kỳ kiểm tra mỗi giáo viên trong tổ Văn sẽ ra một đề. Sau đó ban giám hiệu nhà trường và giáo viên tổ trưởng Tổ Văn sẽ chọn một trong các đề ấy làm đề chính thức.
HOÀNG HƯƠNG

Thứ Ba, 20 tháng 10, 2015

Giúp học sinh nhận biết, sử dụng hiệu quả phép tu từ nhân hóa

GD&TĐ - Vì là nội dung mới nên việc nhận biết và sử dụng hiệu quả phép tu từ nhân hóa là mội nội dung khó với học sinh lớp 3.

Chỉ ra hạn chế trong việc dạy học nội dung này, cô Phạm Thị Thu Hương - Giáo viên Trường tiểu học Hồ Tùng Mậu (Nam Định) – cho biết:
Nhiều học sinh lúng túng trong việc nhận biết biện pháp tu từ nhân hóa. Mặt khác, do khả năng nhận thức mới ở mức độ đơn giản nên các em cảm nhận biện pháp tu từ này chưa tốt. Bản thân giáo viên, cũng lúng túng khi dạy học nội dung này.
Để khắc phục tình trạng trên, cô Phạm Thị Thu Hương cho rằng, trước hết, giáo viên cần giúp học sinh hiểu rõ khái niệm về nhân hóa, cũng như tác dụng của biện pháp tu từ này.
Sau khi khái quát và củng cố cũng như khắc sâu kiến thức về biện pháp tu từ nhân hóa, giáo viên cần cho học sinh nắm vững và vận dụng ở các dạng phù hợp.
Giúp học sinh hiểu rõ khái niệm về nhân hóa
Nhân hóa là gọi hoặc tả con vật, cây cối, đồ vật… bằng những từ ngữ vốn được dùng để gọi hoặc tả con người; làm cho thế giới loài vật, cây cối, đồ vật trở nên gần gũi với con người, biểu thị được những suy nghĩ, tình cảm của con người. Nhân hoá có tác dụng làm cho các sự vật trở nên sống động gần gũi với con người.
Ngoài nội dung cơ bản trên, theo cô Hương, giao viêncó thể nói thêm: Nhân hoá hay nhân cách hoá là một biến thế của ẩn dụ, ở đó người ta chuyển đổi ý nghĩa của các từ ngữ chỉ thuộc tính của con người sang đối tượng không phải con người. Có người cho nhân hoá thực ra là nhân vật hóa, tức là cách biến mọi vật thành nhân vật đối thoại hay như là một nhân vật của mình
Nhân hóa là gọi hoặc tả về tính nết, hoạt động con vật, cây cối, đồ vật,… bằng những từ ngữ vốn dùng để gọi và tả người.
Về các cách nhân hóa, với nội dung dùng những từ vốn gọi người để gọi sự vật, trước hết giáo viên cho học sinh tập hợp những danh từ (sự vật) chỉ quan hệ thân thuộc của con người như ông, bà, cha, mẹ, anh, chị, em, cô, dì, chú, bác, thím, cậu, mợ, …
Sau đó, hướng dẫn học sinh nhận biết những danh từ (sự vật) chỉ quan hệ thân thuộc của con người trong nhóm trên khi đi với một danh từ chỉ con vật, đồ vật, sự vật tự nhiên thì con vật, đồ vật, sự vật tự nhiên đó đã được nhân hóa.
Vơi cách dùng những từ vốn chỉ hoạt động, đặc điểm của người để chỉ hoạt động,đặc điểm của vật, giáo viên cho học sinh tập hợp những động từ chỉ hoạt động của con người, tập hợp những tính từ chỉ tính chất, trạng thái của con người; hướng dẫn học sinh những từ chỉ hoạt động, đặc điểm của con người được gán cho đối tượng không phải là người thì đối tượng đó đã được nhân hóa.
Ngoài ra, còn có cách nhận hóa: Trò chuyện, xưng hô với vật như đối với người; các nhân vật, sự vật tự xưng.
Khắc sâu lý thuyết bằng các dạng bài tập phù hợp
Sau khi khái quát và củng cố cũng như khắc sâu kiến thức về biện pháp tu từ nhân hóa, cô Hương cho rằng, giáo viên cần giúp học sinh nắm vững và vận dụng ở các dạng bài tập sau:
Bài tập nhận biết biện pháp tu từ nhân hóa: Hình thức của dạng bài tập này thường là nêu ngữ liệu qua đoạn văn, câu thơ, câu văn... trong đó có sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa, từ đó hiểu được nhân hóa là gì.
Dạng bài tập này có thể chia thành các bài tập nhỏ: Nhận diện (tìm) sự vật nhân hóa; tìm từ ngữ thể hiện biện pháp nhân hóa.
Dạng bài tập suy luận, phân tích: Đây là loại bài tập kích thích sự tưởng tượng, luôn sáng tạo cho học sinh cảm nhận được cái hay, cái đẹp của biện pháp nhân hóa.
Dạng bài tập tạo lời: Với nội dung này, tạo lời không chỉ yêu cầu đúng mà còn yêu cầu hay. Để làm được điều đó ngoài việc nắm được thế nào là nhân hóa, các cách nhân hóa, học sing còn phải hiểu tác dụng của biện pháp nhân hóa, đòi hỏi người thực hiện phải hiểu biết rất nhiều về sự vật trong thế giới xung quanh.
Do đó có thể hiểu “tạo lời” là một hoạt động thể hiện rõ nhất tính tích cực trong nhận thức của học sinh. Bởi tính phức tạp của nó nên bài tập “tạo lời” về nội dung nhân hóa được cấu tạo đơn giản, dể hiểu và có số lượng không nhiều.
Loại này phân thành các dạng nhỏ sau: Tìm những từ ngữ chỉ người, chỉ đặc điểm, dấu hiệu của con người, điền vào chỗ trống cho thích hợp nhằm diễn tả sự vật bằng cách nhân hóa; Sử dụng biện pháp nhân hóa để diễn đạt lại những câu văn cho sinh động, gợi cảm; tập viết đoạn văn có sử dụng biện pháp nhân hóa.
3 bước tổ chức dạy học các dạng bài tập về tu từ nhân hóa.
Cô Hương cho biết, tổ chức dạy học các dạng bài tập về biện pháp tu từ nhân hóa ở lớp 3 thông thường được thực hiện theo các trình tự:
Bước 1: Nhận diện bài tập. Một học sinh đọc thành tiếng toàn bộ bài tập, cả lớp vừa nghe vừa theo dõi bài tập trong sách giáo khoa để nhận diện ra hình ảnh nhân hóa, sự vật nhân hóa có trong câu văn, câu thơ.
Bước 2: Phân tích bài tập. Sau khi đã nhận ra hiện tượng hình ảnh nhân hóa có chứa trong câu văn câu thơ, giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích một trường hợp để tìm ra các yêu cầu của bài tập.
Bước 3: Hướng dẫn bài làm. Học sinh sau khi đã tìm ra được dạng bài thì tự phân tích để hiểu bài tập rồi trình bày bài làm theo ý hiểu của mỗi học sinh.
Bước 4: Tổ chức cho học sinh nhận xét đánh giá kết quả của bài tập để các em nhớ lại một lần nữa kiến thức đã học. Để học sinh có thể tự đánh giá, giáo viên cần nêu các tiêu chuẩn để yêu cầu từng học sinh đánh giá bài mình hoặc bài của bạn theo chuẩn đã nêu…
Một số lưu ý quan trọng
Biện pháp tu từ nhân hóa không chỉ được dạy ở các bài trong phân môn Luyện từ và câu mà phải dạy khi học các môn khác có nội dung nhân hóa, trong cả giao tiếp thông thường. Phân môn thích hơp để tích hợp nội dung này là Tập đọc, Tập làm văn…
Tuy nhiên, cô Phạm Thị Thu Hương lưu ý, để việc rèn kĩ năng sử dụng biện pháp nhân hóa cho học ính đạt kết quả cao, giáo viên cần thường xuyên hướng dẫn học sinh sử dụng biện pháp nhân hóa trong đặt câu, viết đoạn văn để dần dần nâng cao thành sử dụng một cách linh hoạt biện pháp này trong các bài văn miêu tả.
Khi chấm bài , giáo viên nên đọc và chữa lỗi một cách tỉ mỉ, cần gợi ý, hướng dẫn, gợi mở nhiều cách viết để học sinh lựa chọn cách viết phù hợp; hoặc lựa chọn những hình ảnh phù hợp trong câu văn, đoạn văn để học sinh khắc sâu hơn về cách sử dụng biện pháp này trong phân môn Luyện từ và câu.
Để học sinh hứng thú với việc học luyện từ và câu, bên cạnh đưa ra các dạng bài tập phong phú, phù hợp với trình độ tiếp nhận của học sinh, giáo viên cũng cần tạo ra một môi trường học tập thân thiện, hấp dẫn, lôi cuốn để phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh trong học tập.
Hải Bình (ghi)

Ma trận đánh giá theo năng lực Lớp 9



ĐỀ THI MINH HỌA LỚP 9 - 120 phút
Câu 1(10 điểm)
1.1 (5,0 điểm): Hình ảnh sau gợi cho em nghĩ đến tác phẩm nào đã học trong chương trình Ngữ văn 9? Hãy cho biết tác giả và xuất xứ của tác phẩm ấy.
 a. Mẹ hiền dạy con, Ôn Như Văn Ngọc và Trần Lê Nhân dịch từ Liệt nữ truyện của Trung Quốc.
 b.Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ, trong Truyền kì mạn lục.
c.Nói với con của Y Phương, trong Thơ Việt Nam 1945 - 1985.
d. Bếp lửa của Bằng Việt, trong Hương cây – Bếp lửa.
   1.2 (5,0 điểm): Hãy chép chính xác hai câu cuối trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật. Hai câu thơ ấy cho em biết phẩm chất gì của người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn?
 a. Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước/ Chỉ cần trong xe có một trái tim. Phẩm chất của người lính lái xe: Yêu nước.
 b. Không có kính không phải vì xe không có kính/ Bom giật, bom rung, kính vỡ đi rồi. Phẩm chất của người lính lái xe: dũng cảm, gan dạ.
 c. Ung dung buồng lái ta ngồi/ Nhìn đất, nhìn trời,nhìn thẳng. Phẩm chất của người lính lái xe: lạc quan, yêu đời.
 d. Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới/ Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.Phẩm chất của người lính lái xe: vui tươi, đoàn kết.
 Câu 2 (10 điểm)2.1 (5,0 điểm) Hãy kể tên một phương châm hội thoại đã học. Ghi lại một câu ca dao, tục ngữ liên quan đến phương châm hội thoại ấy.
 2.2 (5,0 điểm) Tìm thành phần phụ chú trong đoạn trích sau và cho biết chúng bổ sung điều gì?
 Bước vào thế kỉ mới, muốn “sánh vai cùng các cường quốc năm châu” thì chúng ta sẽ phải lấp đầy hành trang bằng những điểm mạnh, vứt bỏ những điểm yếu. Muốn vậy thì khâu đầu tiên, có ý nghĩa quyết định là hãy làm cho lớp trẻ – những người chủ thật sự của đất nước trong thế kỉ tới – nhận ra điều đó, quen dần với những thói quen tốt đẹp ngay từ những việc nhỏ nhất.  (Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới –Vũ Khoan)
 Câu 3 (10 điểm) Đọc văn bản sau và hoàn thành các yêu cầu bên dưới:
 (…) “Đốt” thời gian trên “phây”

Vừa ra chơi, nhiều nhóm học sinh (HS) trường THPT X (TP.HCM) cùng tụm đầu vào những chiếc điện thoại cài ứng dụng “phây” (Facebook) để "tám" về một trạng thái nào đó được chia sẻ mà nhiều HS quan tâm. Họ cùng bàn luận, phân tích những nội dung, hình ảnh hay những comment (bình luận) mới vừa được đưa lên.
Có bạn còn tranh thủ luôn giờ nghỉ giải lao chỉ vài phút để đưa lên những trạng thái mới hoặc gửi đi phản hồi nào đó ngay trên điện thoại của mình. (…) Ngọc Tuyết cho biết, hôm nào lớp hoặc nhóm có hoạt động, sự kiện chung gì đổ lên Facebook thì nhiều bạn trong lớp đều thức rất khuya để cập nhật, phản hồi liên tục.
“Nhiều hôm em nhắc mình đúng 12 giờ là đi ngủ nhưng lại ráng thêm chút, gửi đi gửi lại thì đã đến 1 - 2 giờ sáng. Lên “phây” là cách “giết” thời gian hiệu nghiệm nhất, mỗi ngày em mất 3 - 4 giờ cho nó”, Tuyết bộc bạch. Không ít HS xem Facebook là nhật ký hàng ngày của mình nên mọi hoạt động ăn chơi, ngủ nghỉ đều cập nhật liên tục. Có em còn dành nhiều thời gian chăm sóc, tỉa tót, chú trọng đến từng bức ảnh, từng nét trang trí… để gây sự chú ý.
Phó hiệu trưởng một trường phổ thông ở Q.3, TPHCM cho hay, nếu cách đây vài năm có một bộ phận học trò đến lớp với tinh thần mệt mỏi, lờ đờ, nằm rạp trên bàn vì nghiện game online thì bây giờ bộ phận này có thêm các em nghiện Facebook, kể cả HS giỏi. Dùng Facebook có thể không nguy hiểm như game online nhưng các em tham gia thiếu kiểm soát thì tốn rất nhiều thời gian, ảnh hưởng đến việc học và cũng không thích thú với các hoạt động xã hội.
Phải biết làm chủ bản thân
Nhiều phụ huynh đau đầu khi nhìn con mê mẩn “đốt” thời gian với Facebook. Có người phải dùng đến biện pháp mạnh như cắt tiền tiêu của con, cắt internet hay tìm đến các phần mềm ngăn chặn con vào Facebook.
Bà Lê Minh Hoa (chuyên viên đài 1080) cho hay bản thân bà gặp rất nhiều câu hỏi từ các bạn trẻ cho rằng nghiện Facebook là điều không đáng lo ngại nhưng các bạn chưa biết cách làm chủ bản thân. Thường thì khi vào Facebook rồi các bạn dễ bị lôi cuốn theo và quên luôn thời gian nên cần trước hết phải chủ động cài báo thức, hoặc nhờ người thân nhắc nhở mình.
Không phủ nhận những tiện ích của Facebook trong việc chia sẻ, kết nối nhưng ThS. Nguyễn Hoàng Khắc Hiếu (ĐH Sư phạm TPHCM) cho rằng Facebook là một "mê cung" có sức mê hoặc rất lớn mà nếu thiếu kiểm soát thì rất dễ bị lôi cuốn bởi những giá trị ảo. Khi người dùng thiếu tự chủ thì Facebook trở thành “kẻ cắp” thời gian, sức khỏe. Bởi thế, mỗi người phải biết đặt ra những quy tắc như mỗi ngày chỉ vào 1 hay 2 giờ đồng hồ trong khoảng thời gian nào đó nhất định để tạo thành một thói quen.
Đối với phụ huynh, theo các chuyên gia, việc cấm cản kịch liệt con dùng Facebook chưa phải là biện pháp phù hợp mà cần giúp con sử dụng đúng cách, đúng mức vì chúng có những tiện ích không thể phủ nhận. Phụ huynh cần có những quy ước với con trẻ như vào Facebook trong thời gian bao lâu, tránh những phát ngôn về chửi bới, nhục mạ hay bêu xấu người khác, biết chọn lọc những điều hay trên mạng xã hội… Nếu con vi phạm thì áp dụng những cách xử lý hay hình phạt nào để trẻ biết giới hạn của mình.
Đồng thời cha mẹ phải cùng con xây dựng những mục tiêu, công việc cụ thể trong học tập và cuộc sống thì khi đó dù có ham vui nhưng trẻ vẫn hiểu trách nhiệm với bản thân và cả mọi người xung quanh.
(Theo Hoài Nam – Báo Mực Tím online)
 3.1 Văn bản trên chủ yếu đề cập đến vấn đề gì?
 3.2 Hãy chỉ ra một lí do lên facebook của các bạn trẻ trong văn bản trên.
 3.3 Theo bài viết, việc “nghiện” facebook đã gây ra những hậu quả gì?
 3.4 Giải pháp phù hợp mà cha mẹ nên có để giúp con mình không “nghiện” facebook là gì?
 3.5  Em học tập được gì sau khi đọc văn bản trên?
 Câu 4 (10 điểm) Đọc văn bản sau và hoàn thành các yêu cầu bên dưới“Trong sóng có người gọi con:
"Bọn tớ ca hát từ sáng sớm cho đến hoàng hôn. Bọn tớ ngao du nơi này nơi nọ mà không biết từng đến nơi nao".
Con hỏi: "Nhưng làm thế nào mình ra ngoài đó được ?".
Họ nói: "Hãy đến rìa biển cả, nhắm nghiền mắt lại, cậu sẽ được làn sóng nâng đi".
Con bảo: “Buổi chiều mẹ luôn muốn mình ở nhà, làm sao có thể rời mẹ mà đi được ?”.
Thế là họ mỉm cười, nhảy múa lướt qua.
Nhưng con biết trò chơi khác hay hơn.
Con là sóng và mẹ sẽ là bến bờ kì lạ,
Con lăn, lăn, lăn mãi rồi sẽ cười vang vỡ tan vào lòng mẹ.
Và không ai trên thế gian này biết mẹ con ta ở chốn nào.”
(Mây và sóng, R.Ta-go, SGK Ngữ Văn 9, tập hai, tr. 87)
 4.1 Chỉ ra một nét đặc sắc về nghệ thuật của đoạn thơ trên.
 4.2 Nêu nội dung của đoạn thơ trên.
 4.3 Kể tên một tác phẩm đã học trong chương trình lớp 9 có cùng chủ đề với đoạn thơ trên.
 4.4 Chỉ ra sự khác nhau giữa cuộc vui của những người ở “trong sóng” và trò chơi do em bé tạo ra?
 4.5 Vì sao em bé trong bài thơ cho rằng trò chơi của mình hay hơn cả cuộc vui của những người ở “trong sóng”?
 Câu 5 (10 điểm) Đọc văn bản sau và hoàn thành các yêu cầu bên dưới. “Cháu giới thiệu với bác ông kĩ sư ở vườn rau dưới Sa Pa ! Ngày này sang ngày khác ông ngồi im trong vườn su hào, rình xem cách ong lấy phấn, thụ phấn cho hoa su hào. Rồi, để được theo ý mình, tự ông cầm một chiếc que, mỗi ngày chín mười giờ sáng, lúc hoa tung cánh, đi từng cây su hào làm thay cho ong. Hàng vạn cây như vậy. Để củ su hào nhân dân toàn miền Bắc nước ta ăn được to hơn, ngọt hơn trước. Ông kĩ sư làm cháu thấy cuộc đời đẹp quá. (…) Hay là, đồng chí nghiên cứu khoa học ở cơ quan cháu ở dưới ấy đấy.
Có thể nói đồng chí ấy trong tư thế sẵn sàng suốt ngày chờ sét. Nửa đêm mưa gió rét buốt, mặc, cứ nghe sét là đồng chí choáng choàng chạy ra. Như thế mười một năm. Mười một năm không một ngày xa cơ quan. Không đi đến đâu mà tìm vợ. Đồng chí cứ sợ nhỡ có sét lại vắng mặt mình. Đồng chí đang làm một cái bản đồ sét riêng cho nước ta. Có cái bản đồ ấy thì lắm của lắm bác ạ. Của chìm nông, của chìm sâu trong lòng đất đều có thể biết, quý giá lắm. Trán đồng chí cứ hói dần đi. Nhưng cái bản đồ sét thì sắp xong rồi.”
(trích “Lặng lẽ Sa Pa” – Nguyễn Thành Long, Ngữ văn 9, tập một, tr.186)
 5.1 Đây là lời nhân vật anh thanh niên nói với ai, trong tình huống nào?
 5.2 Người kể chuyện trong văn bản tự sự trên là ai ?
 5.3 Phương thức trần thuật nào được sử dụng trong đoạn văn trên?
 5.4 Trong đoạn văn trên, nhân vật anh thanh niên bày tỏ thái độ xót xa, cảm thông sâu sắc cho hoàn cảnh của ai?
 5.5 Đoạn văn trên chủ yếu thể hiện phẩm chất gì của nhân vật anh thanh niên?
 Câu 6 (10 điểm) Hãy đặt nhan đề cho văn bản sau: Hai đứa trẻ nọ có một người cha nghèo khổ, thất học. Ông ấy chỉ biết bắt con mình làm việc vất vả mỗi ngày mà không nghĩ đến việc trao cho chúng cơ hội học hành để thoát khỏi cảnh sống hiện tại. Năm tháng qua đi, hai cậu đã lớn và mỗi người có một cuộc sống của riêng mình.
Một nhà tâm lý học đi tìm thực tế cho bài nghiên cứu "Tác động của hoàn cảnh đến con người" đã tìm đến hai người. Một người giờ đây đã trở thành phiên bản mới của cha cậu ngày xưa: thất học, đói rách, bắt con cái làm việc quần quật. Còn người kia lại là một trong những người đi đầu trong phong trào xóa mù chữ, tạo cơ hội cho trẻ em phát triển.
Nhà tâm lý học hỏi hai người cùng một câu: “Tại sao anh trở thành người như thế?”
Thật bất ngờ, cả hai cùng đưa ra một câu trả lời: “Sống trong hoàn cảnh như vậy, đương nhiên là tôi phải trở thành người như thế này rồi.”.   (Sưu tầm từ Internet)
 Câu 7 (20 điểm)Có một "nghề" không bao giờ nghỉ lễ
Đó chính là "nghề" làm Cha Mẹ.
Hãy phụ giúp Người dù cánh tay nhỏ bé, dù túi tiền không đầy, dù cách xa hàng trăm kilômét ...
Vẫn luôn luôn có cách để Người vui.
 (trích từ Facebook của Thạc sĩ tâm lí Nguyễn Hoàng Khắc Hiếu)
 Hãy viết đoạn văn ngắn (từ 10 đến 15 câu) trình bày cảm xúc và suy nghĩ của em về vấn đề được gợi ra từ văn bản trên.
 Câu 8(20 điểm)“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”
(trích “Sang thu” – Hữu Thỉnh, Ngữ văn 9, tập hai, tr.70)
 Viết bài văn ngắn (khoảng một trang giấy thi) về một nội dung hoặc nét nghệ thuật mà em yêu thích trong đoạn thơ trên.
--------------
Trần Tiến Thành - SGD TP.HCM